Thứ Tư, 11 tháng 7, 2007

Hai Sắc Hoa TiGôn ( T.T.Kh )


Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ đến với yêu đương.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: “Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”.

Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”.

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai.

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

Bài Thơ Thứ Nhất ( T.T.Kh )

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương

Tai ác ngờ đâu gió lạ qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan âm điệu du dương trước
Và tiễn người đi Bến cát xa

Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành

Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi , làm sao lạnh rất nhiều !

Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng : vẫn nhớ em ...

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa
Cố quên đi nhé , câm mà nín
Đừng thở than bằng những chuyện thơ !

Tôi run sợ viết lặng thinh nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về

Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa , than ôi !
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi ....

Bài Thơ Đan Áo Và Bài Thơ Cưối Cùng ( T.T.Kh )


"Chị ơi! Nếu chị đã yêu.
Đã từng lỡ hát ít nhiều đau thương,
Đã xa hẳn quãng đường hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng

.Biết chăng chị? Mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em,
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.

Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ.
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi! Gió đã sang bờ ly tan...

Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao !

Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khóa chết chim vào lông nghiêm ?
Ai đem lễ giáo giam em?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời...

Lòng em khổ lắm chị ơi !
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai.
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình!

"Bài Thơ Cuối Cùng Thi sĩ : TTKH
Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ, một lòng đaụ..
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời, có nói đâu !
Đã lỡ, thôi rồi ! chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khị
Trách ai mang cánh "ty-gôn" ấy,
Mà viết tình em, được ích gì ?

Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ "đan áo" của chồng em.
Bài thơ "đan áo" nay rao bán,
Cho khắp người đời thóc mách xem...

Là giết đời nhau đấy, biết không ? ....
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung,
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương : điệu cuối cùng !

Từ đây, anh hãy bán thơ anh,
Còn để yên tôi với một mình,
Những cánh hoa lòng, hừ !đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơị..
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời !

Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôị.. chết
Đêm hỡi ! Làm sao tối thế nầy ?

Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,
Lại chính là anh ? anh của em !

Tôi biết làm sao được hỡi trời ?
Giận anh, không nỡ !Nhớ không thôi !
Mưa buồn, mưa hắt,trong lòng ướt...
Sợ quá đi, anh... "có một người

Vài nét Về Thi Sỉ (T.T.Kh) Hai Sắc HOa TiGôn

T.Kh. tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau, nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này.

Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu (số tháng 9-1937) xúc động, tự thổ lộ câu chuyện riêng bằng bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn và gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy. Bài thơ in ra gây xôn xao trong làng văn chương như ông Hoài Thanh ghi nhận. Tiếp đó để giải thích lý do viết bài Hai sắc hoa ti-gôn, T.T.Kh. gửi đến Tiểu thuyết thứ bảy một bài nữa, với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất và viết tặng riêng Thâm Tâm bài thơ Đan áo.Lại càng xôn xao, nhiều người cho là nam giới giả danh, nhiều người nhận là người yêu của mình, trong số này có nhà thơ Nguyễn Bính.

Thâm Tâm hồi ấy còn trẻ, với tính hiếu thắng của tuổi trẻ, ông đã gửi báo Phụ nữ đăng bài thơ Đan áo để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Tất nhiên không có sự đồng ý của T.T.Kh. Và thế là T.T.Kh. giận, cô viết bài thơ lấy tiêu đề Bài thơ cuối cùng gửi đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy, vừa hờn vừa giận đầy yêu thương, và cũng từ đấy T.T.Kh. "tắt lịm" trên thi đàn. Sau này, Thâm Tâm có viết một bài thơ dài để trả lời T.T.Kh. bài Các anh, (tập thơ mới của Thâm Tâm, nhà xuất bản Văn học 1987, có in bài Các anh nhưng đây chỉ mới trích một phần). Lời bàn: Có người viết hàng trăm bài thơ, in hơn chục tập thơ, mà không gây được mộ vang hưởng nào trong nghệ thuật thơ. T.T.Kh. viết bốn bài, có bài đã gây được vang hưởng. Ðã gần 7 thập niên, kể từ khi 4 bài thơ độc đáo của TTKh được phổ biến trên 2 tạp chí Tiểu thuyết thứ bẩy và Phụ nữ thời đàm ở Hà nội. Giới văn chương, báo chí cũng như những người yêu thích thơ văn tiền chiến đã tốn khá nhiều bút mực, công lao để tìm hiểu về thân thế và con người thật ngoài đời của bà, nhưng đến nay vẫn còn nhiều mù mờ !
Gần đây đã có vài khám phá đáng mừng, dù vậy văn học sử vẫn còn cần thời gian để kiểm chứng mức độ chính xác của nó . Trong suốt thời gian dài vừa qua, biết bao nhiêu những dữ kiện được thêu dệt rất lãng mạn liên quan đến tác gỉa bởi những người yêu thơ của bà cũng như những nhà làm văn nghệ...Vài người còn tưởng tượng hay đưa ra những chứng minh tự nhận mình là người yêu của bà !.

bài này, chúng tôi thu gom một số tài liệu từ xưa đến nay viết về TTKh cũng như đề cập đến nguyên nhân mà những bài thơ của bà đã được xuất hiện trên thi đàn. Ðây cũng chỉ là công việc sắp xếp những tài liệu đó cho có thứ tự với hy vọng cung ứng một vài kiến thức cho những người thích thơ văn tiền chiến và nhất là thơ của TTKh mà thôi. 1.Sự xuất hiện TTKh. trên thi đàn tiền chiến: Vào khoảng giữ năm 1937, trên tạp chí ’’ Tiểu thuyết thứ bẩy ’’ xuất bản ở Hà Nội có đăng một truyện ngắn ’’Hoa Ti-gôn ’’ của ký gỉa Thanh Châu.

Ðây là một truyện khá bi đát, trong đó mô tả truyện tình của một họa sĩ trẻ vừa ra trường tên Lê Chất. Trong một lần đạp xe đi tìm phong cảnh để vẽ ở một làng quê ven Hà Nội, ngẫu nhiên khi đi qua một căn biệt thự cổ Lê Chất nhìn thấy một cô gái rất đẹp, mặc áo ngắn tay bằng lụa đang đứng trên chiếc ghế cao níu lấy một cành hoa ti gôn mầu đỏ. Sắc đẹp của người thiếu nữ nổi trội lên giữa giàn hoa ti gôn đỏ đã làm cho người hoạ sĩ mẩn mê đứng nhìn...

Rồi từ hôm đó, ngày nào anh ta cũng tìm cách quanh quẩn gần căn biệt thự để được nhìn cô gái và ngược lại cô gái cũng thấy anh ta. Nhưng chỉ được vài lần, rồi không biết lý do gì người con gái không còn xuất hiện nữa. Thời gian qua đi, mang thành công và danh vọng đến cho người hoạ sĩ, nhưng anh ta vẫn không bao giờ quên hình bóng người con gái đẹp dưới giàn hoa tigôn mầu đỏ mà anh ta đã gặp gỡ ngày còn nghèo khổ xa xưa . Rồi ngẫu nhiên, 9 năm sau, trong lần đi tìm dề tài sáng tác ở miền Nam Trung Quốc, anh ta được mời tham dự buổi dạ vũ trong toà lãnh sự Pháp tại Vân Nam .

Lê Chất gặp lại cô con gái ngày xưa, nhưng trong nhiều oái oăm, muộn màng. Chồng của cô gái là một viên chức cao cấp của toà lãnh sự, người chồng mà cô ta không hề yêu thương . Trong lần tái ngộ đó, họ khiêu vũ, tâm sự với nhau, và tiếp theo mối tình của họ được tiếp nối trong vụng trộm . Ðến một lần, họ dự tính bỏ lại đằng sau tất cả để tìm cách trốn đi Nhật sinh sống với nhau. Nhưng đến giây phút cuối, người thiếu phụ gửi cho chàng họa sĩ một lá thư, kèm một chùm hoa tigôn mầu đỏ máu, nàng từ chối ra đi vì không đủ can đảm từ bỏ danh dự và tai tiếng của gia đình cũng như sự khinh bỉ của gia đình chồng. Buồn đau vì ý định không thành, người họa sĩ vẫn ra đi Nhật bản một mình trước khi trở về Hà nội. Rồi, ngẫu nhiên, bốn năm sau, anh ta nhận được lá thư từ người chồng của cô gái báo tin nàng đã mất ! Lê Chất sang Vân Nam viếng mộ người xưa với một chùm dây hoa tigôn, loại hoa kỉ niệm mối tình của họ. Cũng từ đó cho đến suốt cuộc đời, cứ vào mua hoa tigôn nở, Lê Chất không bao giờ quên mua những chùm hoa tigôn để trang hoàng trong phòng làm việc như để tưởng nhớ đến người yêu xa xưa vắn số của mình . Mấy ngày sau khi câu truyện ngắn trữ tình đó xuất hiện trên báo, có một thiếu phụ khỏang 20 tuổi, dáng dấp nhỏ bé, thùy mị, nét mặt u buồn mang đến toà báo, đưa tận tay người chủ bút một phong thư dán kín. Trong đó có một bài thơ rất hay với đề tựa ’’Hai sắc hoa tigôn’’ được ký tên tác gỉa là T.T.Kh.

Bài thơ não lòng, lột tả được tất cả cái đau xót của người con gái đã phải xa người mình yêu, người đã cùng mình gắn bó thề ước dưới giàn hoa tigôn để đi lấy chồng, người mà mình không hề yêu: Người ấy thường hay vuốt tóc tôi Thở dài trong lúc thấy tôi vui Bảo rằng: hoa dáng như tim vỡ Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi ! Nỗi đau buồn đó đã theo hết cuộc đời của nàng trong sự hững hờ của gia đình chồng vì biết nàng vẫn còn tưởng nhớ đến tình nhân xa cũ : Từ đấy thu rồi thu lại thu Lòng tôi còn gía đến bao giờ Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ Người ấy, cho nên vẫn hững hờ. Cái ray rứt, cái đau khổ vì nghĩ mình là kẻ phụ bạc vẫn theo dầy vò người thiếu phụ, làm cho nàng sợ những buổi chiều thu nhạt nắng, sợ bóng dáng ai kia vẫn còn nhớ đến chùm hoa kỷ niệm đỏ tựa máu hồng :

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gío về lạnh lẽo,chân mây vắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò

Nếu biết rằng tôi đã có chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng !

bài thơ ‘’ Hai sắc hoa tigôn ‘’ vừa cho lên mặt báo đã gây xôn xao trong giới yêu văn chương. Nhiều nhà phê bình đã không ngần ngại cho rằng đây là một kiệt tác. Trong không khí sôi động đó, toà báo lại nhận thêm được một bài thơ khác cùng tác gỉa, qua đường bưu điện với đề tựa ‘’ Bài thơ thứ nhất ‘’. Bài thơ này cũng với những câu thơ buồn đau đầy nước mắt, giải thích, mô tả kỹ lưỡng hơn về mối tình dang dở của cặp tình nhân gặp nhau rồi yêu nhau và cuối cùng không biết vì lý do nào đó người đàn ông rời xa, người đàn bà ở lại yêu kỷ niệm cho đến ngày lấy chồng :

Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gío rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành

Và mot ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa , lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác !

Người con gái đã tưởng rằng, cuộc tình dang dở của mình đã đi vào dĩ vãng. Thời gian và ngăn cách cũng làm đổi thay nơi cố nhân để giúp nàng quên được mối tình xa xưa, lỡ dở đó. Nhưng oái oăm thay, người xưa vẫn còn nặng lòng, tưởng nhớ đến nàng, đến chòm hoa tigôn mầu đỏ hình tim kỷ niệm : Ðang lúc lòng tôi muốn tạm yên Bỗng ai mang lại cánh hoa tim Cho tôi ép nốt dòng dư lệ Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên ! Ðẹp gì một mảnh lòng tan vỡ Ðã bọc hoa tàn dấu xác xơ !

Tóc úa giết lần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chẳng nên chờ.

bài thơ thứ nhất được đưa lên báo, có người thắc mắc tại sao bài thơ Hai sắc hoa Tigôn lại được gửi đăng báo trước bài Thơ thứ nhất ? Người ta cho rằng, tác gỉa đã làm bài Thơ thứ nhất, than khóc cho mối tình lỡ dở của mình từ lâu nhưng vì một lý do nào đó không gửi đăng báo. Nhưng sau đó, ngẫu nhiên đọc câu truyện ngắn Hoa Tigôn cuả ký gỉa Thanh Châu, cảm động với câu truyện và nhất là tìm thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình, tác gỉa đã làm bài thơ Hai sắc hoa Tigôn rồi gửi ngay cho toà báo. Chính vì thế bài thơ thứ nhất được phổ biến sau bài Hai sắc hoa tigôn:

Buồn qúa hôm qua xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như mầu máu thắm pha

Cũng ở tuổi ngây ngô lúc mới gặp nhau thì làm sao hiểu được ý nghĩa của những tiếng thở dài của người yêu? !

Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy !

Sau bài thơ thứ nhất được đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy, giới văn nghệ càng bàn tán nhiều hơn nữa. Bao nhiêu những tưởng tưộng,thêu dệt với những tình tiết lâm ly về hình dạng, thân thế và cả mối tình buồn đau lãng mạn của tác gỉa được đưa ra báo chí. Vẫn trong cái không khí xao động, bàn tán lung tung vì 2 bài thơ vừa đăng báo đó, tạp chí ‘’Phụ nữ thời đàm’’ ở Hà nội lại nhận được bài thơ ‘’

Đan áo cho chồng ‘’ của cùng tác gỉa qua bưu điện. Bài thơ này cũng vẫn với giọng điệu buồn đau, nhưng có vẻ than van, oán trách thân phận mình nhiều hơn. Nàng mô tả như bị tù tội trong cuộc sống với người chồng không yêu nhưng vẫn mong đợi bóng dáng người xưa :

Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng
Như con chim hót trong lồng
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao !

Ngoài trời mưa gío xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm ?
Ai đem lễ giáo giam em ?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời...

Bài thơ đan áo cho chồng vừa ra mắt thì toà báo Tiểu thuyết thứ bẩy lại qua đường bưu điện nhận được bài thơ thứ tư với đề tựa : Bài thơ cuối cùng . Ðúng như đề tựa của nó, sau bài thơ này, làng thơ không bao giờ còn nhận được thêm bài nào nữa, TTKh hoàn toàn biến mất trên thi đàn! Cũng từ đó trong lịch sử văn thơ tiền chiến phải nhận lấy sự bí mật về một tác giả mà chỉ có vỏn vẹn 4 bài thơ nhưng đã tạo được chỗ đứng rất vững trãi trong nền văn học VN. Ý tứ của bài thơ cuối cùng hơi khác 3 bài thơ trước, nó than van, mô tả nhiều hơn về nỗi xót xa của mối tình dang dở nhưng lại đượm đầy giọng trách móc cố nhân, đã vì hư danh mà rao bán bài thơ đan áo mà nàng đã tặng riêng cho chàng

: Chỉ có ba người được đọc riêng,
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem ...

Nàng hờn dỗi :

Từ đây, anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi vớI một mình
Những cánh hoa lòng, hừ ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh !

Nhưng giận thế nào được khi lòng nàng vẫn còn đầy rẫy nhớ thương? Bóng dáng người xưa vẫn luẩn quẩn đâu đây trong tim và trí nhớ nàng ? :

Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh, không nỡ !Nhớ không thôi!
Mưa buồn, mưa hắt trong lòng ướt...
Sợ qúa đi anh...Có một người !...

Bài thơ cuối cùng xuất hiện vào giữa năm 1938, trong giới văn chương vẫn không giảm xút những lời bàn tán, thêu dệt về thân thế và cuộc tình buồn bã của tác gỉa, đã thế nhiều nhà báo, nhà thơ có tên tuổi đương thời đã đưa ra những chứng cớ để cố nhận người thi sĩ tài năng đầy bí ẩn đó là người yêu của mình. 2. Những dữ kiện lên quan đến thân thế của TTKh. Như trên đã đề cập đến cái độc đáo của bài thơ kèm theo ý tứ của một mối tình buồn bã, lãng mạn... thêm vào đó sự bí mật về thân thế thi nhân càng làm cho người ta tò mò muốn biết về tác gỉa. Ðến nay đã gần 70 năm rồi, người ta vẫn phải nhận lấy những điều mù mờ về thân thế và cả những thêu dệt vô căn cứ về người nữ sĩ tài danh đó ! Sau đây là một vài sự kiện đã gây ra những xáo động dư luận trong giới thơ văn. Ðúng hay sai, tưởng tượng hay là một lối tìm nguồn thi hứng của những người làm văn nghệ...Ðến nay vẫn chỉ là những dấu hỏi mù mờ mà thôi! a.Dư luận với ký gỉa Thanh Châu : Như phần trên đã viết, truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy đã là nguyên nhân xuất hiện những bài thơ diễm tình, lãng mạn bất tử của TTKh trong làng thơ tiền chiến. Nếu xét những diễn tiến cũng như tâm trạng buồn đau của người con gái trong truyện ngắn Hoa Tigôn và trong 4 bài thơ của TTKh, nhất là bài Hai sắc hoa Tigôn, người ta thấy nội dung hai bài gần như giống hệt nhau. Cũng vẻ ngây thơ của người con gái thủa ban đầu gặp gỡ người yêu, cũng bóng dáng người nghệ sĩ làm cho nàng nhớ mãi không quên dưới giàn hoa Tigôn kỷ niệm :

Thủa trước hồn tôi phơi phới qúa
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương hay :

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng : hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi .

Rồi những câu thơ tả người thiếu phụ luôn luôn tưởng nhớ đến cố nhân , phải miễn cưỡng kéo dài cuộc sống nhàm chán bên người chồng luống tuổi mà mình không yêu... Tất cả những dữ kiện đó đã lột tả gần như hòa hợp rất khắng khít với cốt truyện ngắn của Thanh Châu.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạnh lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn dấu trong tim bóng một người

Chính vì vậy ngay khi mấy bài thơ xuất hiện trên báo chí, ký gỉa Thanh Châu đã khẳng định với dư luận, TTKh chính là người con gái trong căn biệt thự ở ngoại ô Hà nội, là người yêu của ông.Sự xác định này đã quấy lên những xáo trộn nghì ngờ cũng có, tin tưởng cũng có trong làng thơ văn lúc bấy giờ. b. Dư luận với Nguyễn Bính: Có lẽ Nguyễn Bính cũng bị chinh phục bởi những vần thơ trữ tình, lãng mạn pha cảm giác đau buồn vì khắt khe của lễ giáo, danh dự gia đình của người thiếu phụ hoa Tigôn. Hình ảnh đau xót, lạnh lùng của người đàn bà đã phải chịu đựng suốt cuộc đời với người chồng mà nàng không yêu, nhưng vẫn giữ được tấm lòng son sắt, chung tình với cố nhân làm cho ông cảm động. Nguyễn Bính cũng nhập cuộc với cái xôn xao của làng thơ, ông cho rằng TTKh là ‘’ người tình vườn Thanh’’ xưa cũ của mình ! Theo thi sĩ thì ngày ông còn trẻ, ở lứa tuổi còn thích giang hồ, đi Bắc, về Nam để tìm cảm hứng làm thơ. Có lần gặp buổi trời mưa lớn, ông ghé vào căn nhà trọ một vùng quê ở Thanh Hóa, căn nhà có một thửa vườn rất đẹp và ông gọi là vườn Thanh ( Thanh Hóa ). Cũng nơi đây ông đã gặp gỡ và yêu si một cô gái quay tơ xinh đẹp. Nhưng vì biết mình vẫn còn mang nặng kiếp giang hồ, thi sĩ đã không dám nghĩ đến việc nhân duyên, để rồi lại ra đi theo tiếng gọi của sông nước, tìm thi hứng cho thơ văn. Rồi nhiều năm sau đó khi có dịp trở lại vườn Thanh, thi sĩ được người lão bộc kể cho nghe một thiên tình hận ! Ngày nhà thơ bỏ ra đi đã làm lở dở mối tình của người thiếu nữ quay tơ, sau đó nàng phải bước sang ngang với một người chồng gìa tuổI, không yêu : Tơ duyên đến thế thì thôi, Thế là uổng cả một đời tài hoa Ðêm đêm bên cạnh chồng già Và bên cạnh bóng người xa hiện về... Với thời gian, thi sĩ Nguyễn Bính tưởng rằng đã quên được mối tình hận năm xưa, nhưng khi đọc mấy bài thơ của TTKh đã kéo ông lại với quá khứ ! Nhà thơ tìm thấy mối tình của TTKh mô tả trong mấy bài thơ giống y hệt như mối tình vườn Thanh của mình. Nhất là trong bài thơ thứ nhất tả cảnh cố nhân tiễn ông ra đi rồi trở về vườn Thanh để sống với nỗI cô đơn trong gío lạnh : Thổi tan âm điệu du dương trước Và tiễn người đi bến cát xa Ở lại vườn Thanh có một mình Tôi yêu gío lạnh lúc tàn canh Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành. Với cái cảm xúc có được từ hình ảnh đầy thi tứ, buồn thương đó, Nguyễn Bính đã làm một bài thơ khá dài ‘’ Giòng Dư Lệ ‘’ ông đề tặng riêng cho TTKh, người mà ông chắc chắn là cô gái quay tơ đã một lần thi sĩ gặp gỡ, yêu si. Trong bài thơ này ông mô tả tất cả những diễn tiến của cuộc tao ngộ lần đầu gặp nhau cho đến lúc ông xót đau than khóc khi đọc những bài thơ tâm sự của TTKh.

Tuổi nàng năm ấy còn thơ Còn bao hứa hẹn đợi chờ một mai Rồi đây bao gío bụi đời Tôi quên sao được con người vườn Thanh. Ðể rồi thi sĩ chẳng ngại ngần gì xác quyết TTKh là người yêu vườn Thanh xa xưa của mình : Chuyện xưa hồ lãng quên rồi, Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh Bao nhiêu oan khổ vì tình Cớ sao giống hệt chuyện mình ngày xưa? Phải chăng mình có nên ngờ Rằng người năm cũ bây giờ là đây ? c.Dư luận với thi sĩ Thâm Tâm: Với thi sĩ Thâm Tâm ( Nguyễn tuấn Trình, 1917-1948) có những dữ kiện và chứng minh rất hấp dẫn nói đến sự liên hệ tình cảm của ông với TTKh có vẻ như vững trãi hơn và đáng tin tưởng hơn so với ký gỉa Thanh Châu và thi sĩ Nguyễn Bính. Tuy nhiên nếu suy nghĩ kỹ lưỡng ngườI ta cũng không thể coi là hoàn toàn xác thực để cho vào văn học mà không có những dấu chấm hỏi nghi ngờ được ! Dữ kiện đầu tiên từ bút hiệu TTKh đã là một dấu tích thuận lợi cho nhà thi sĩ Thâm Tâm tuyên bố với nhân gian là TTKh người yêu của mình vì đó là sự gán ghép hai tên Thâm Tâm và Khánh , tên của cô gái, người yêu của ông mà thành. Nhưng Phạm Thanh tác gỉa cuốn Thi Nhân Việt Nam Hiện Ðại lại cho rằng, đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên và tưởng tượng vu vơ của Thâm Tâm mà thôi. Thật ra TTKh chẳng phải là người yêu của ông nào cả. Nữ sĩ chính là Trần Thị Khánh (TTKh ), một nữ sinh ở phố Sinh Từ, Hà nội, cô ta yêu tha thiết một thanh niên, nhưng vì bị ép buộc của gia đình phải lấy một người đàn ông khác nhiều tuổi hơn, tên là Nghiêm.. Ðơn giản chỉ có thế mà thôi ! Dư luận lúc đó cũng chẳng biết đúng sai ra sao vì sau khi

Bài thơ cuối cùng’’’ được đăng báo vào giữa năm 1938 , TTKh biệt tích trên thi đàn. Nhưng mãi đến năm 1940 nhà thơ Thâm Tâm mới nhẩy vào để nhận là người yêu của nàng. Ông làm một bài thơ khá dài với đề tựa là ‘’Trả lời của người yêu ‘’ dành tặng riêng cho TTKh, trong đó ông đã gọi tên nữ sĩ là Khánh, một bài thơ rất hay, rất não nùng bằng những câu thơ có tí phiền giận tác gỉa TTKh, người yêu của ông : Khánh ơi, còn hỏi gì anh Ái tình đã vỡ, ái tình lại nguyên Em về đan nốt tơ duyên Vào tà áo mới đừng tìm mối xưa Bao nhiêu hạt lệ còn thừa Dành ngày sau khóc những giờ vị vong ! Hay: Giờ hình như gió thổi nhiều Những loài hoa máu đã gieo nốt đời Tâm hồn nghệ sĩ nổi trôi Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh Sá chi những chuyện tâm tình Lòng đau, đau chứa trong bình rượu cay ! Sau đó Thâm Tâm còn viết hai bài thơ khác nữa tặng riêng cho TTKh, bài ‘‘Mầu máu Tigôn’’ và bài ‘’ Dang dở ‘’ , đây là những bài thơ rất hay và rất cảm động của Thâm Tâm trong năm 1940. Suốt mây mươi năm sau đó nhiều người làm văn hoá vẫn cố tìm tòi thân thế thực của TTKh để xóa đi bóng tối bí mật của người nử sĩ tài năng đó, nhưng những cố gắng đó cũng chẳng đến đâu ! Mãi sau này tờ báo Nhân Dân ra ngày chủ nhật 23 tháng 7 năm 1989, ký gỉa Hoàng Tiến đã đưa ra một dữ kiện khác, trong đó ông ta cùng với hai thi sĩ đương thời là Trần Lê Văn và Tú Sót, cả ba người cho biết đã trực diện nghe nhà thơ Lương Trúc (tên thật là Phạm Quang Hoà, thuộc thế hệ cùng thời và là bạn thân của Thâm Tâm, Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân. ) nói về sự liên hệ tình cảm giữa Thâm Tâm và TTKh. Nhà thơ Lương Trúc cho biết cách đây 4 năm ( 1985 ) ông có gặp TTKh, bà tên thật là Trần thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Theo ông, Thâm Tâm và cô Khánh yêu nhau nhưng không lấy được nhau, vì danh dự của gia đình cho nên họ hứa với nhau giữ kín mối tình đó. Rồi ngẫu nhiên cô Khánh đọc được truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu trên Tiểu thuyết thứ bẩy số báo tháng 9 năm 1937, cô ta xúc động với tình tiết của câu truyện và làm ra bài thơ Hai sắc hoa tigôn gửi đi đăng báo. Bài thơ đã làm xáo động trong làng thi văn, rồi nàng gửi thêm Bài thơ thứ nhất với mục đính giải thích cho bài thơ Hai sắc hoa Tigôn. Ngoài ra TTKh còn viết tặng riêng cho Thâm Tâm bài thơ Ðan áo cho chồng. Thâm Tâm cảm động với ý tứ bài thơ và nhất là muốn chứng minh với dư luận đang ồn ào, TTKh chính là người yêu của mình, ông đã gửi bài thơ ‘’ Ðan áo’’ đến tâp san Phụ nữ thời đàm để phổ biến. TTKh không vừa ý với hành động đó của Thâm Tâm, vì thế cô ta viết một bài thơ khác lấy tên là Bài thơ cuối cùng, nói lên sự hờn trách người yêu đã vì hư danh mà đem quảng bá bài thơ mà nàng tặng riêng cho ông ra cho nhân gian biết. Nhưng trong những câu thơ hờn trách đó nàng vẫn không dấu được lòng yêu thương cố nhân :

Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ ! Nhớ không thôi
Mưa buồn, mưa hắt trong lòng uớt...
Sợ qúa đi anh...Có một người !

Dù với lời xác nhận của nhà thơ lão thành Lương Trúc nhưng vẫn chưa thật sự làm thỏa mãn dư luận được vì trong đó vẫn còn rất nhiều điểm mù mờ về thân thế, tên tuổi... của người nữ thi sĩ bí mật đó ! d. Khám phá mới nhất về TTKh: Gần đây nhất, vào năm 1994 trong một tài liệu không lưu tên tác gỉa đã tiết lộ một tin tức mới nhất, được coi là đầy đủ nhất về thân thế của TTKh. Nhưng có lẽ người ta vẫn cần thời gian để xác nhận mức độ xác thực của tiết lộ này. Theo tài liệu cho biết một người đàn bà dấu tên D.T.L. đã cho nhà văn Thế Nhật biết như sau: Bốn chữ TTKh có ý nghĩa như sau : -Chữ T đầu tiên là TRẦN, là tên họ của nữ thi sĩ Trần thị Chung tác gỉa của bốn bài thơ bất tử đó, nhưng thường gọi là Trần thị Vân Chung, bà sinh ngày 25 tháng 8 năm 1919 tại thị xã Thanh Hóa, nhưng trưởng thành ở Hà nội trong một gia đình quan lại. Bà Vân Chung hay là TTKh có một người anh cả, hai người em gái và một người em trai út. Năm 1934 qua mối mai của gia đình bà kết hôn với luật sư Lê Ngọc Chấn của VNCH, sau năm 1975 ông Chấn bị chết trong trại cải tạo. Hiện nay bà cùng con cái sống ở một thị xã nhỏ miền nam nước Pháp, bà vẫn tiếp tục viết văn làm thơ với nhiều bút hiệu khác nhau như Vân Nương, Tơ Sương..v..v.. -Chữ T thứ hai, có nghĩa là Thanh, để chỉ tên ký gỉa Thanh Châu, tác gỉa truyện ngắn ‘’Hoa Tigôn’’. Cốt truyện đã mang đến cho bà sự cảm xúc tột cùng với mối tình đầy lãng mạn, chung thủy, đã cho bà thi hứng để làm được những bài thơ tuyệt vời mang đầy cảm giác giận hờn, thương đau và cao thượng . -Chữ Kh có nghĩa là khóc! Bà khóc thay cho mối tình dang dở với những trái ngang làm cho người thiếu phụ phải sống trọn cuộc đời với người chồng mà mình không yêu nhưng cũng không thể quên được người tình xưa cũ của mình. Nếu tiết lộ trong tài liệu này là đúng thì tất cả những sự kiện liên quan đến tên tuổi, thân thế của TTKh trong nhiều thập niên qua, cũng như những thêu dệt lâm ly, trữ tình của ký gỉa Thanh Châu, thi sĩ Nguyễn Bính, Thanh Tâm và cả thi sĩ J. Leiba chỉ còn là những tưởng tượng vu vơ, mà những người làm văn nghệ cần đến nó để dìm mình vào thế giới mộng ảo cho việc tìm cảm hứng để sáng tác mà thôi. 3. Kết luận: Bản chất của thơ văn là tưởng tượng và hư cấu. Khi bước vào thơ văn để thưởng thức cái hay, cái cảm của một áng văn, một bài thơ... Người ta phải biết trải rộng tâm hồn mình ra tiếp nhận những cảm xúc đưa đến từ bài thơ, bản văn đó.

Ðiều đó có nghĩa là người ta phải sống và hoà nhập vào nội dung của tác phẩm, phải biết vui buồn, đau khổ hay hoan lạc, giận hờn với những hoàn cảnh éo le của nhân vật trong tác phẩm. Có được những cái đó trong khi thưởng thức thì coi là ‘’ Ðạt’’ vậy ! Người ta cần biết thân thế hay cuộc đời riêng tư của tác gỉa để làm gì ?Ðôi khi sự tìm tòi, tò mò đó chẳng có lợi ích gì cho cái thú thưởng lãm của người đọc mà còn mang đến cho người đọc có cái nhìn sai lệch vì chủ quan, thành kiến với cá nhân tác gỉa nữa. Với cái quan niệm đó, người ta nên nghĩ rằng bốn bài thơ của TTKh đã quá đủ để làm cho người đọc ngẩn ngơ vì cái hay, cái xúc tích biết bao nhiêu cảm giác đau buồn, thương nhớ, giận hờn... đôi lúc đã làm người đọc phải lịm người mà nước mắt ướt mi...Như vậy là đủ rồi ! Chúng ta cần gì phải thắc mắc TTKh là ai làm gì nhỉ ? Nàng là cô nữ sinh Trần thị Khánh ở phố Sinh Từ, Hà Nội. Nàng là Trần vân Chung hay Trần thị Vân Chung cô gái đất Thanh hoá... Nàng là ai cũng thế mà thôi! Ðiều quan trọng mà chúng ta biết rất rõ, những bài thơ của TTKh là những bài thơ rất hay, sẽ mãi mãi bất tử trong thi đàn VN. Thế là đủ rồi ! Cũng nhân tiện trong bài viết có lẽ chúng ta cũng nên biết sơ qua về loài hoa Tigôn mà nó đã là đề tựa cho bốn bài thơ của TTKh ra đời. Hoa Tigôn là một loại hoa leo, có hai loại, loại cho ra hoa mầu trắng và loại cho ra hoa mầu đỏ hay hồng tươi, có thể mọc ở toàn cõi VN. Lá Tigôn mầu xanh, hình tim như lá trầu nhưng nhỏ cỡ 3 ngón tay. Hoa Tigôn nhỏ bằng đầu chiếc đũa ăn cơm, mọc thành chùm, hoa tigôn có 5 cánh hình trái tim, hai cánh nhỏ ở trong và 3 cánh lớn hơn chụm vào nhau bao ở ngoài. Khi gặp gió hay mưa hoa rụng từ cuống hoa, rơi xuống đất nhưng vẫn còn nguyên cả bông hoa chứ cánh hoa không tách rờI ra tơi tả như TTKh mô tả trong thơ của bà:

Thủa đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly !

Chuyện Hai Sắc Hoa TiGôn



“… Hoa leo ti gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…”


nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn. Đó là thói quen của họa sư mà không một người bạn hay người học trò thân nào là không biết rõ. Đến mùa hoa ti gôn nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng: Hoa ti gôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuốm máu đào.


Rồi người ta phải tự hỏi thầm: “Tại sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây”.*Một buổi trưa – hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là một họa sĩ nghèo mới ở trường ra – một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh vẽ. Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hãm xe, nghễnh cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vầng trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.


Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.
Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ nhìn thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần cũng quên đi…


Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao: Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”. Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.


Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của tòa lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. Ở đâu? Chất giật mình. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: Thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.
Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột nhiên hỏi:


- Bà vẫn thích hái hoa ti gôn chứ?Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:


- Ông nói gì… tôi không hiểu.


- Có lẽ bà đã quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…


Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:


- Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?Nàng nói tiếp:


- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau…


Mai Hạnh – tên thiếu phụ – rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung.


Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê Chất nói:


- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không?


Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:


- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.


Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.


Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh: “Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai… Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng còn em thì chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết em sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh…”
Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.


Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.*Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là của người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết.


Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông mới sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh đã chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt…, hay vì sầu muộn…


Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa ti gôn nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.